Đầu năm 1920, sau khi dập tắt các cuộc khởi nghĩa của nông dân, ruộng đất nước ta chủ yếu tích tụ vào tay một số ít địa chủ Pháp, phong kiến, quan lại, địa chủ thường và địa chủ kiêm công thương đã làm xã hội phân hóa mạnh mẽ. Giai cấp địa chủ chiếm 9% tổng số chủ ruộng nhưng lại sở hữu trên 50% diện tích đất canh tác. Tiểu nông chiếm trên 90% tổng số chủ ruộng nhưng lại chỉ có gần 40% diện tích trồng trọt. Ngoài ra còn khoảng 2,2 triệu hộ trong tổng số 4 triệu hộ nông thôn lúc bấy giờ hoàn toàn không có đất. Họ bị bóc lột dã man bởi tô, tức, thuế…
Đời sống nông dân dưới thời Pháp thuộc vô cùng nghèo nàn, đau khổ. Song chính trong sự áp bức bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và tay sai đã khiến cho họ nhận rõ bộ mặt thực của kẻ thù dân tộc và kẻ thù giai cấp. Bằng những kinh nghiệm trực tiếp của mình, giai cấp nông dân đã tiến từng bước tới giác ngộ chính trị. Họ sẵn sàng ủng hộ, đi theo các phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì quyền lợi của người lao động.
Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, từ lâu, Người đã hiểu và gắn bó với nông dân Việt Nam. Trong cuốn Đường Kách mệnh (1927), đồng chí Nguyễn Ái Quốc đặt vấn đề nông dân Việt Nam muốn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột thì phải “tổ chức nhau lại”, vì vậy, Người đã dành riêng một chương phân tích về tình hình nông dân Việt Nam và tầm quan trọng của “Tổ chức dân cày”. Vạch rõ nguồn gốc đói nghèo, đau khổ của nông dân Việt Nam chính là do sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của đế quốc, phong kiến và bè lũ tay sai. Vì vậy “Nếu dân cày An Nam muốn thoát khỏi vòng cay đắng, thì phải tổ chức nhau kiếm đường giải phóng”; Giai cấp nông dân cần phải có tổ chức riêng của mình là Hội dân cày. Nhưng trong tình hình hiện tại chưa nên gọi là Hội dân cày, mà nên gọi là phường lợp nhà, phường đánh cá, phường chung lúa…
Ngày 1/11/1929, Báo “Dân cày” số đầu tiên của tỉnh Ninh Bình được phát hành, nội dung tờ báo tố cáo sự bóc lột dã man của thực dân, kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh chống đế quốc cướp nước và đánh đổ tay sai.
Cuối thập kỷ 20 của thế kỷ XX, Nông hội đỏ đã xuất hiện ở một số địa phương. Tháng 11/1929, Ban Chấp hành Tổng Nông hội Nghệ An ra đời, do đồng chí Phan Thái Ất làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo của xứ ủy Trung Kỳ, ngày 10/12/1929 ở thành phố Vinh – Bến Thủy và một số vùng ở Nghệ An rải truyền đơn kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham gia các tổ chức quần chúng của Đảng cộng sản. Truyền đơn có phần kêu gọi Dân cày gia nhập Nông hội, theo Đảng Cộng sản đấu tranh đòi bỏ thuế người, thuế vườn, thuế chợ, thuế đò, bỏ lệ bắt phu… Tiếp theo nhiều tổ chức Nông hội đỏ được thành lập ở Thái Bình, Hà Nội, Hà Đông, Hải Phòng, Hải Dương và các tỉnh Trung Kỳ, Nam Kỳ…
Đầu năm 1930, Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Cửu Long (Hương Cảng – Trung Quốc), trong Sách lược vắn tắt của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc dự thảo, được Hội nghị hợp nhất thông qua ngày 03/02/1930 đã nêu ra những vấn đề cơ bản đối với giai cấp nông dân: “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến”; đồng thời, Đảng nhấn mạnh ”Nông dân là lực lượng to lớn của cách mạng”. Vì vậy, phải tập hợp nông dân vào một tổ chức dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, đấu tranh giành độc lập tự do và thực hiện cách mạng ruộng đất.
Cao trào cách mạng 1930 – 1931, dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương, các tổ chức Nông hội cấp cơ sở được hình thành ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, đặc biệt là ở Nghệ – Tĩnh. Nông dân cả nước đã vùng lên đấu tranh cùng với công nhân giành thắng lợi từng bước. Chỉ tính từ tháng 5/1930 – 10/1930 cả nước có 53.000 hội viên nông hội.
Trên cơ sở đó, Hội nghị lần thứ Nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong tháng 10/1930 tại Hương Cảng đã thông qua bản Luận cương chính trị, trong đó nêu rõ: “Dân cày là hạng người chiếm đại đa số ở đông Dương (hơn 90 phần trăm), họ là một động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân quyền”. Luận cương vạch rõ: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp có đứng đầu và cùng với quần chúng dân cày để tranh đấu và binh vực quyền lợi hằng ngày cho dân cày và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để thì mới giành quyền lãnh đạo dân cày được”. Cùng với việc thông qua Luận cương chính trị, Hội nghị còn ra Nghị quyết về Tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, trong đó nêu rõ các quyết định quan trọng của Hội nghị, một trong các quyết định đó là “phải chỉnh đốn Nông hội lại cho có hệ thống theo điều lệ mới và dự bị việc tổ chức Đông Dương Tổng Nông hội”. Tại Hội nghị quan trọng này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về thành lập Tổng Nông hội Đông Dương và thông qua Điều lệ Tổng Nông Hội Đông Dương gồm 8 điều trong đó nêu rõ mục đích ”Thống nhất hết thảy Tổng Nông Hội Đông Dương để tranh đấu bênh vực quyền lợi hàng ngày của nông dân và để thực hiện cách mạng thổ địa”. Điều lệ Tổng Nông hội Đông Dương quy định: “Hễ Nông hội nào thừa nhận mục đích, Điều lệ và chịu thi hành những án nghị quyết của Tổng Nông hội Đông Dương và nộp hội phí thì được nhận làm hội viên”. trong đó trọng tâm là xây dựng tổ chức Nông hội, cơ sở của Nông hội là làng. Tổ chức phải theo hệ thống dọc: từ tổng Tổng Nông hội, huyện Tổng Nông hội, tỉnh Tổng Nông hội, xứ Tổng Nông hội, đông Dương Tổng Nông hội. Cũng tại hội nghị này Điều lệ Nông hội làng được thông qua. Mục đích của Nông hội làng là đoàn kết hết thảy bần và trung nông trong làng, liên hiệp với nông dân và công nhân các nơi trong nước để đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bênh vực quyền lợi của nông dân và thực hiện cách mạng ruộng đất. Chúng ta đã có nhiều thế hệ “chiến sĩ nông dân” trong chiến tranh vệ quốc, lấy cuốc cày làm vũ khí, bám đất, bám ruộng, một tất không đi, một ly không bỏ, làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Ngày nay, qua 35 năm đổi mới đất nước và nhất là hơn 12 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ-TW – Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, các cấp Hội Nông dân đã thể hiện được vai trò là “trung tâm và nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới”. Người nông dân Việt Nam với những phẩm chất cao đẹp, như lòng yêu nước; lòng nhân ái, vị tha, hòa hiếu, khoan dung; tình làng, nghĩa xóm, truyền thống đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau; bản chất dũng cảm, kiên cường, bất khuất, mưu trí, sáng tạo, cần cù, chịu khó đã thực hiện sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới về nông sản; nhiều sản phẩm nông nghiệp do nông dân Việt Nam làm ra đã góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế về mặt kinh tế, thể hiện thể lực, trí lực người nông dân cũng được nâng cao.
Việc thành lập Tổng Nông hội Đông Dương (tên gọi đầu tiên của Hội Nông dân Việt Nam ngày nay) đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử giai cấp nông dân Việt Nam, sự trưởng thành và lớn mạnh về của phong trào nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trãi qua nhiều lần đổi tên, ngày 01/3/1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quyết định số 42 – QĐ/TW về việc đổi tên Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam thành Hội Nông dân Việt Nam. Tại phiên họp ngày 17/01/1991, Bộ Chính trị đã đồng ý lấy ngày 14/10/1930 làm Ngày truyền thống Hội Nông dân Việt Nam.
Hội Nông dân Việt Nam đã trãi qua 7 kỳ đại hội, hiện tại là nhiệm kỳ 2018-2023. Kỷ niệm 92 năm Ngày truyền thống Hội Nông dân Việt Nam là dịp để cán bộ, hội viên, nông dân cùng nhân dân cả nước ôn lại truyền thống cách mạng vẻ vang của tổ chức Hội và giai cấp nông dân Việt Nam; cổ vũ, động viên cán bộ, hội viên, nông dân ra sức thi đua, phát huy vai trò, trách nhiệm của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hòa bình, thịnh vượng./.
Huyện Tuy Đức là huyện biên giới nằm phía Tây Nam tỉnh Đắk Nông, có vị trí địa lý: phía Đông giáp huyện Đăk Song, phía Tây giáp tỉnh Bình Phước, phía Nam giáp huyện Đăk R’lấp, phía Bắc giáp vương quốc Cam Pu Chia.
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 112.219 ha, dân số toàn huyện có trên 65 nghìn người, với 21 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm trên 44%. Toàn huyện hiện có 06 đơn vị hành chính cấp xã, 73 thôn, bon, bản và nhiều đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang đóng chân trên địa bàn huyện. Tỷ lệ hộ nghèo trên toàn huyện chiếm 34,83% dân số; trong đó số hộ nghèo ĐBDTTS chiếm trên 70% tổng số hộ nghèo toàn huyện.

Hiện nay toàn huyện có 73 Thôn, Bon, Bản đều có Chi Hội nông dân, với 5.259 hội viên, chiếm trên 40% so với số hộ nông nghiệp, số hội viên là đảng viên có 236 người, chiếm 4,51% so với tổng số hội viên. Từ năm 2017 – 2021 qua phong trào đã thu hút 1.528 nông dân tham gia vào tổ chức Hội, đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch được tỉnh Hội giao hàng năm (năm 2017: 363; năm 2018: 301; năm 2019: 283; năm 2020: 276; năm 2021: 305).

Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và Hội cấp trên, sự tạo điều kiện giúp đỡ của chính quyền địa phương , cùng với sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban ngành và các đoàn thể trong huyện đã thúc đẩy phong trào nông dân SXKDG ngày càng phát triển, Hội các cấp đã làm tốt công tác phối hợp với phòng NN& PTNT, Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp huyện và các cơ quan chức năng tổ chức tập huấn chuyển giao những tiến bộ khoa học – kỹ thuật, cây, con giống mới cung cấp cho Hội viên nông dân; nhờ vào việc áp dụng những tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào trong sản xuất làm tăng năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, tăng thu nhập cho Hội viên thúc đẩy phong trào nông dân thi đua SXKDG ngày càng phát triển.
Kết quả từ năm 2017 – 2021, các cấp hội đã phối hợp tổ chức mở 164 lớp tập huấn KHKT cho gần 7.000 lượt hội viên nông dân về kỹ thuật tròng trọt, chăn nuôi, phòng trừ sâu bệnh và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; xây dựng các mô hình kinh tế trang trại và cách phòng chống dịch bệnh ở gia súc, gia cầm; Phối hợp mở 20 lớp đào tạo nghề ngắn hạn cho 673 lao động nông thôn về các nghề như: kỷ thuật trồng trọt, Chăn nuôi thú y, sữa chữa máy nông nghiệp, hàn xì; đồng thời phối hợp với các Công ty phân bón tổ chức 140 cuộc Hội thảo chuyển giao KHKT và quy trình sử dụng phân bón, thuốc BVTV cho 7.233 lượt hội viên nông dân, qua đó đã cung ứng được trên 1.600 tấn phân bón trã chậm các loại.
Bên cạnh đó Hội Nông dân huyện đã làm tốt công tác phối hợp với Ngân hàng CSXH, giải ngân cho hội viên nông dân vay các nguồn vốn để đầu tư sản xuất, tính đến thời điểm hiện tại Hội đang quản lý nguồn vốn ủy thác từ Ngân hàng CSXH trên 140 tỷ đồng thông qua 51 Tổ TK&VV, có hơn 3.600 khách hàng tham gia vay vốn. Ngoài ra Hội Nông dân huyện còn nhận ủy thác quản lý nguồn vốn Quỹ HTND các cấp với số tiền 6,73 tỷ đồng, triển khai cho 187 hộ vay thực hiện 21 dự án trồng trọt, chăn nuôi tại địa bàn các xã. Trong đó, nguồn vốn Quỹ HTND Trung ương ủy thác là 1,60 tỷ đồng; nguồn vốn tỉnh 2,10 tỷ đồng; Ngân sách địa phương ủy thác 2,85 tỷ đồng; nguồn vận động và bổ sung từ kết quả hoạt động 180 triệu đồng.

Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi trong những năm qua đã tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp, nông thôn và ứng dụng KHKT trong sản xuất, kinh doanh tại địa phương làm cho năng suất, chất lượng một số cây trồng được tăng lên. Thông qua phong trào đã tổ chức tư vấn, hỗ trợ nông dân xây dựng một số mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao, điển hình như: Mô hình trồng thử nghiệm cây Khoai Tây và mô hình trồng hoa Hướng Dương cắt cành do Hội Nông dân huyện triển khai thực hiện; mô hình trồng Dưa lưới trong nhà kính của ông Nguyễn Thanh Tuấn ở thôn 9, xã Đăk Buk So và ông Ngô Xuân Long, bon Bu Mlanh A, xã Đăk Rtih; Mô hình trồng cà chua sạch theo tiêu chuẩn VietGap trong nhà lưới, quy mô 1.000m2 của hộ ông Ngô Quang Trung, thôn 2, xã Quảng Tâm; Mô hình nuôi nấm đông trùng hạ thảo, quy mô 50m2, của hộ ông Đỗ Văn Kiều, thôn 5, xã Quảng Tâm; Mô hình nuôi cá của hội viên Đỗ Văn Đương xã Quảng Trực …, nhìn chung tình hình áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện còn rất hạn chế, tỷ lệ hộ tham gia ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất thấp, không ổn định.

Bên cạnh đó phong trào đã góp phần thúc đẩy việc thành lập được các Tổ hợp tác, Hợp tác xã, các trang trại trên địa bàn huyện.
Đến thời điểm hiện nay trên địa bàn huyện có 14 Hợp tác xã và 07 Tổ hợp tác đang hoạt động, trong đó có 11 hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, 2 HTX hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp, còn Tổ hợp tác chủ yếu hoạt động trongh lĩnh vực nông nghiệp. Trong số 14 HTX có 07 THT do Hội hướng dẫn thành lập; 07 THT có 04 THT do Hội hướng dẫn thành lập, còn lại là tham gia cùng các ngành thành lập. Nhìn chung quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, thiếu vốn sản xuất kinh doanh nên hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả chưa cao,việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh cũng gặp nhiều khó khăn. Hiện có 21 trang trại trong đó có 01 trang trại chăn nuôi, 07 trang trại trồng trọt và 13 trang trại tổng hợp, qua đánh giá cho thấy các trang trại hoạt động tương đối hiệu quả, đã tận dụng nguồn lao động của gia đình và nguồn nguyên liệu có sẵn tại địa phương.
Những kết quả đạt được trong thời gian qua là nhờ có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Hội Nông dân tỉnh, Thường trực Huyện ủy, sự tạo điều kiện của UBND huyện và sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, Ban ngành, Đoàn thể trong huyện đã tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào phát triển. Đặc biệt phong trào đã được đông đảo cán bộ, hội viên nông dân đồng tình hưởng ứng.
Có thể nói 5 năm qua, phong trào “nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi” đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của huyện, nhất là ở là ở lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Qua phong trào đã xuất hiện nhiều điển hình, tiên tiến, họ là những tấm gương sáng của cơ sở và huyện với tinh thần bền bỉ vượt khó, không cam chịu đói nghèo, quyết chí làm giàu chính đáng cho chính mình và giúp đỡ người khác cùng vươn lên làm giàu.