image banner
Quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp Việt Nam
Lượt xem: 321
Quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp Việt Nam
 

“Đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành mục tiêu CNH-HĐH”. Đó là mục tiêu đưa ra trong Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được ban hành ngày 22/3/2018. 

Trong công cuộc đổi mới, việc hình thành, phát triển các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất, khu kinh tế đã tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Đến hết năm 2018, toàn quốc đã có 326 KCN được thành lập, thu hút hơn 15.000 dự án đầu tư trong nước và nước ngoài với số vốn đăng ký đạt 970 nghìn tỷ vốn đầu tư trong nước và hơn 145 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài những đóng góp về phát triển KT-XH, an ninh quốc phòng, thực trạng hệ thống các KCN còn tồn tại nhiều bất cập, ảnh hưởng đến một số mặt. Quy hoạch hệ thống KCN đã được tích hợp trong hệ thống quy hoạch xây dựng và quy hoạch đô thị toàn quốc với tầm nhìn đến năm 2050 cùng những mục tiêu, tiêu chí, tổ chức thực hiện cụ thể gắn với thực tiễn và tầm nhìn dài hạn.

Trước bối cảnh hội nhập quốc tế và sự phát triển của cuộc cách mạng 4.0, Việt Nam cần hướng tới đổi mới, tái cấu trúc và hoàn thiện mô hình các KCN nhằm bắt kịp với xu thế toàn cầu. Phát triển các KCN phải đảm bảo hài hòa lợi ích, lâu dài, lấy hiệu quả KT-XH, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững làm mục tiêu cao nhất.

1. Tổng quan

Qua hơn 30 năm đổi mới, tầm vóc và vị thế của Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đang hướng tới các mục tiêu, trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại gắn với nền kinh tế tri thức… Quy hoạch xây dựng các KCN có vai trò và vị trí hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển KT-XH của quốc gia nhằm định hướng quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp Việt Nam phát triển đồng bộ với hệ thống đô thị - nông thôn quốc gia, đảm bảo phát triển bền vững.

Theo UNIDO (2015), trong số hơn 1.000 khu kinh tế (KKT) tại các quốc gia ASEAN thì có tới 893 KCN, 84 KKT đặc biệt, 25 Khu công nghệ cao (KCNC), chỉ có hai khu công nghệ sinh học và một công viên sáng tạo. Tại Việt Nam, theo số liệu của Vụ Quản lý các KKT – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết năm 2018, toàn quốc có 326 KCN được thành lập với tổng diện tích tự nhiên hơn 93 nghìn ha, chiếm 68%. Trong đó, có 250 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 68 nghìn ha và 76 KCN trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với diện tích tự nhiên là 25 nghìn ha. Đối với KKT, có 18 KKT ven biển đã được thành lập với tổng diện tích tự nhiên mặt đất và mặt nước hơn 845 nghìn ha. Lũy kế đến hết năm 2018, các KCN, KKT trên cả nước thu hút được khoảng 7.500 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đăng ký ước đạt gần 970 nghìn tỷ đồng và khoảng 8.000 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký ước đạt hơn 145 tỷ USD. Tỷ lệ lấp đầy các KCN đạt 73%.

Hệ thống KCN còn góp phần hiện đại hóa hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng, đồng thời góp phần củng cố an ninh, quốc phòng. Có 218/250 KCN có nhà máy xử lý nước thải tập trung hoạt động với tổng công xuất XLNT đạt hơn 950.000 m3/ngày đêm. Lao động trong các KCN khoảng trên 3 triệu lao động, trong đó nữ chiếm 60%, một số ngành như da giày, dệt may, chế biến thủy sản có doanh nghiệp tỷ lệ nữ chiếm tới 80% đến 90%.

Tuy nhiên, hệ thống các khu công nghiệp hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập, ảnh hưởng tới tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững. Cụ thể về hệ thống hạ tầng kỹ thuật, số nhà máy xử lý nước thải trong khu công nghiệp mới đạt 88% thấp hơn so với chỉ tiêu đặt ra năm 2020 là 100%. Nhiều địa phương, các quy định về môi trường, công nghệ còn lỏng lẻo, tiêu chí “lấp đầy” được đặt lên hàng đầu để giải quyết lao động thất nghiệp. Thực trạng nhu cầu cung cấp điện, nước cho sản xuất còn thiếu, hiệu suất sử dụng năng lượng trong nhà máy còn thấp. Hệ thống công viên tập trung, cây xanh cách ly, chủng loại cây bố trí trong KCN, nhà máy chưa hợp lý, hạn chế tác dụng điều hòa không khí và cảnh quan. Việc tận dụng nước mưa, nước sản xuất cho tưới cây, vệ sinh trong KCN chưa được triển khai phổ biến. Xây dựng mô hình KCN sinh thái hướng tới mô hình KCN bền vững còn hạn chế. Việc chuyển đổi các KCN truyền thống sang mô hình KCN sinh thái, giai đoạn 1 gắn các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch đã tiết kiệm mỗi năm hơn 22.000MW giờ điện, 600.000m3 nước sạch… trị giá hơn 6,5 triệu USD.

Giai đoạn 2010-2015, các địa phương đã đăng ký 110 dự án nhà ở cho công nhân, 27 dự án được khởi công, 9 dự án hoàn thành. Tỷ lệ công nhân lao động có nhà ở do doanh nghiệp và KCN xây dựng tăng 10,3% so với 10 năm trước đây. Do quy mô lớn, vốn đầu tư cao, nhưng thu hồi vốn chậm, hiệu quả tháp, rất ít doanh nghiệp mặn mà đến việc xây dựng nhà ở cho công nhân. Việc huy động vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp còn khó khăn… Mặc dầu có những chuyển biến tích cực nhưng vấn đề nhà ở, hạ tầng xã hội và đời sống công nhân trong khu công nghiệp đặt ra hết sức cấp bách. Tỷ lệ lao động nhập cư hiện nay ở các KCN khoảng trên 50%, địa phương có tỷ lệ lao động nhập cư cao như TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương, lao động ngoại tỉnh chiếm tới 70%, Hiện có khoảng 55% công nhân trong các KCN tập trung phải thuê nhà trọ. Một số địa bàn xung quanh các KCN đang quá tải về hạ tầng, hệ thống an sinh xã hội chưa đáp ứng kịp, nhất là trường học từ mầm non đến trung học và cơ sở khám, chữa bệnh. Số học sinh các cấp từ mẫu giáo đến trung học đều vượt chuẩn, thậm chí có nơi phải bố trí học ba ca. Các dịch vụ thiết yếu phục vụ công nhân như chợ, siêu thị, khu vui chơi giải trí… chủ yếu mang tính tự phát, chưa được đầu tư bài bản gắn với địa bàn và nhu cầu thực tế của người dân. Sự phát triển quá nhanh có phần thiếu kiểm soát về quy mô, ranh giới đô thị khiến cho cấu trúc đô thị có phần bất ổn. Nhiều khu vực trước đây được xác định thuộc ngoại vi như các khu công nghiệp, khu xử lý chất thải, nghĩa trang, tuyến đường sắt và nhà ga đường sắt… nay bị bao vây bởi các khu đô thị mới. Tại nhiều đô thị có các khu công nghiệp phát triển ở khu vực ven đô thì hệ thống nhà ở công nhân thiếu tiện ích đô thị, hạ tầng xã hội vì nằm xa các trung tâm đô thị.

Tỷ lệ lấp đấy ở nhiều KCN còn thấp, đặc biệt ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Trung Bộ vẫn dưới 30%. Hạ tầng kết nối đa phương tiện thiếu đồng bộ, mất cân đối khi vận tải đường bộ chiếm tới  77% tổng lượng hàng hóa vận chuyển của cả nước. Tiêu chuẩn kỹ thuật hạ tầng, nhà xưởng còn thấp…

Theo Nghị định 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ, có ba loại hình KCN, gồm: KCX, KCN hỗ trợ, KCN sinh thái. Có hai mô hình đầu tư phổ biến:

- KCN phát triển theo hình thức đầu tư cơ sở hạ tầng KCN và cho thuê. Như KCNC Hòa Lạc, Khu Bắc Thăng Long. Các KCN này do quy định hạn chế về sử dụng đất dân dụng trong KCN nên đã ảnh hưởng tới cung cấp dịch vụ nhà ở công nhân chuyên gia, dịch vụ thương mại trong KCN.

- KCN phát triển theo mô hình khép kín do 1 chủ đầu tư thực hiện như VSHIP (Bắc Ninh), Vinfast (Hải Phòng), phát triển KCN gắn nhà ở dịch vụ cho công nhân, dịch vụ thương mại trong KCN.

2. Hệ thống KCN trong hệ thống quy hoạch xây dựng và quy hoạch đô thị

- Theo Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng Thủ đô đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 – Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 6/5/2016 thì đất xây dựng các khu công nghiệp đến 2030 là 41.100ha.

Hình thành các khu vực trọng điểm phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp hỗ trợ đóng góp trong chuỗi liên kết sản xuất và các ngành công nghiêp ưu tiên mang tính đột phá dọc các hành lang kinh tế với cảng biển, sân bay và cửa khẩu. Hình thành các khu vực công nghiệp chính trong vùng theo các xu hướng bố trí không gian đô thị hóa phát triển toàn vùng, bao gồm:

Đẩy nhanh di dời chuyển đổi chức năng các cơ sở sản xuất công nghiệp trong nội thành đối với thành phố Hà Nội, thành phố Việt Trì, thành phố Bắc Ninh… Bố trí hợp lý các KCN theo quy chuẩn, tiêu chuẩn và đảm bảo an toàn giao thông.

Đánh giá thực trạng phát triển KCN vùng KTTĐ phía Bắc:

Ngành công nghiệp – xây dựng tiếp tục là trụ cột tăng trưởng của vùng và tập trung đều vào tất cả các địa phương quan trọng tại một số tỉnh, thành phố của vùng như Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Phòng, chiếm 40% GDP của cả nước giai đoạn 2016-2018, tập trung chủ yếu từ các ngành công nghiệp mũi nhọn như: Điện, điện tử, lắp ráp ô tô, đóng tàu, dệt may, công nghiệp phụ trợ. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng trưởng cao nhất cả nước như thành phố Hải Phòng tăng 25,01% cao nhất từ trước đến nay. Vị trí lợi thế là cửa ngõ ra biển ở khu vực phía Bắc, có nhiều cảng container đã và đang được đầu tư và tiếp tục mở rộng (cảng Đình Vũ, cảng Cái Lân, cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại Lạch Huyện…) đã góp phần phát triển dịch vụ logistics và tăng khả năng cạnh tranh loại hình này với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Toàn vùng có 27 trung tâm logistics, chiếm 55% tổng số logistics cả nước, tập trung chủ yếu tại Bắc Ninh (14), Hà Nội (11), Hải Phòng (2).

Trong giai đoạn 2016-2020, kim ngạch xuất khẩu của vùng tăng 57%, tăng từ 49,6 tỷ USD năm 2016 lên tới 78,1 tỷ USD năm 2018, cao hơn nhiều mức tăng của cả nước giai đoạn này là 38%. Do có dự án Samsung hoạt động trên địa bàn nên tỉnh Bắc Ninh dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu của vùng giai đoạn 2016-2018 với 90,5 tỷ USD, chiếm 48,22% toàn vùng; tiếp theo là thành phố Hà Nội đạt 36,289 tỷ USD, chiếm 19,33%. Kim ngạch nhập khẩu của vùng tăng 44,9%, tăng từ 61,8 tỷ USD, cao hơn mức tăng 35,5% của nhập khẩu cả nước. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của vùng giai đoạn 2016-2018 đạt 426,4 tỷ USD nhưng vùng không đóng góp trong thặng dư cán cân thương mại chung (cả nước xuất siêu giai đoạn 2016-2018 đạt 10,69 tỷ USD) mà nhập siêu 40,781 tỷ USD.

Về thu hút công ty có vốn đầu tư nước ngoài, chỉ có Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh đã thu hút được các công ty có vốn đầu tư nước ngoài như Samsung, LG, Microsoft, Canon…và chủ yếu gia công, lắp ráp phần cứng với giá trị gia tăng thấp, các sản phẩm công nghệ cao gắn với phát triển các trung tâm nghiên cứu phát triển (R&D) còn rất hạn chế. Công nghiệp phần mềm và nội dung số chỉ mới tập trung tại TP. Hà Nội nhưng năng lực cạnh tranh còn thấp, quy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước.

- Quy hoạch xây dựng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, quyết định số 1085/QĐ-TTg ngày 12/8/2008, đến năm 2015, tầm nhìn 2025: Quỹ đất xây dựng các Khu công nghiệp trong khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung là 9.670 ha và 8.190ha.

Phân bố các ngành công nghiệp sạch, công nghiệp kỹ thuật cao tại thành phố Huế, Chân Mây, thành phố Đà Nẵng với khu vực Hội An, Mỹ Sơn thuộc Bắc Quảng Nam, Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), bán đảo Phương Mai (Bình Định) để giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực việc bảo vệ di sản, cảnh quan với khả năng phát triển các ngành dịch vụ không khói.

Bố trí các ngành công nghiệp nặng tại khu vực Quảng Ngãi, nam Quảng Nam, Bình Định tại các vùng có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp khai khoáng như mỏ đá ở Bình Định, cát thủy tinh ở Quảng Ngãi, mỏ đá vôi ở các huyện tỉnh Thừa Thiên Huế tiếp cận thuận lợi với các đầu mối vận tải biển hàng không, đường sắt, đường bộ quốc gia.

Bố trí các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp đa ngành như khu vực Bình Định, các vùng miền núi trung du dọc trên tuyến đường Hồ Chí Minh với tuyến Trường Sơn đông tại vùng dồi dào nguồn nguyên liệu nông lâm nghiệp. Khu vực thượng nguồn các sông lớn nên phát triển công nghiệp thủy điện vừa và nhỏ.

Đánh giá thực trạng phát triển KCN vùng KTTĐ miền Trung:

Toàn vùng KTTĐ miền Trung hiện có 19 KCN, chiếm 5,8% số KCN cả nước, trong đó có 5 KCN trọng điểm là Khu công nghệ thông tin và công nghệ cao Đà Nẵng, Khu kinh tế mở Chu Lai, các khu kinh tế Dung Quất, Chân Mây và Nhơn Hội, là những điểm mang tính đột phá, hạt nhân làm động lực phát  triển cho vùng, đóng góp quan trọng trong giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng.

Giai đoạn 2016-2018, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân của vùng chỉ đạt 6,8%, thấp hơn mức tăng trưởng bình quân cả nước. GRDP bình quân đầu người chỉ bằng 50% Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và bằng 70% Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Vùng kinh tế trọng điểm, GRDP bình quân đạt khoảng 2.565 USD/người, cao hơn 1,23 lần bình quân chung toàn vùng và bằng mức bình quân chung của cả  nước. Khu vực công nghiệp – xây dựng có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân đạt khoảng 10,36%/năm (cao hơn mức bình quân cả nước) nhờ sự đóng góp của các dự án công nghiệp động lực như: dầu khí, luyện thép, lắp ráp ô tô, cơ khí chế tạo... Các KKT và KCN trong vùng đã thu hút hơn 1.280 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 500.000 tỷ đồng; vốn đầu tư thực hiện hơn 210.000 tỷ đồng; thu ngân sách khoảng 36.000-40.000 tỷ đồng. Trong đó, đầu tư vào các KKT có 420 dự án (chiếm 32,8%) với vốn đầu tư đăng ký hơn 380.000 tỷ đồng (chiếm 76%); thu ngân sách khoảng 30.000 tỷ đồng (chiếm 70-75%). Phần lớn thu hút vào các KKT, KCN là các ngành thâm dụng lao động, sử dụng nhiều nhiên liệu, năng lượng, ít công nghệ cao như dệt may, da giày, sản xuất sản phẩm nhựa, vật liệu nung, chế biến nông-lâm-thủy sản… làm cho chất lượng và tốc độ phát triển các KKT, KCN của Vùng không cao.

Có 13/19 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích tự nhiên là 2.425,1ha, diện tích đất có thể cho thuê là 1.719,3ha, trong đó diện tích đất đã được cho thuê là 1.460ha, đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng 84,9%. Các KCN tại Vùng đã thu hút được 913 dự án đầu tư, trong đó có 716 dự án có vốn đầu tư trong nước và 1097 dự án có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tăng 188 dự án (trong đó có 134 dự án FDI) so với năm 2013. Tuy vậy, nếu xét về quy mô, so với tỷ lệ 24,1% số dự án trong tổng số các dự án FDI đầu tư vào KCN trên cả nước của vùng KTTĐ Bắc bộ và 62,0% của vùng KTTĐ phía Nam thì số lượng dự án FDI mà các KCN vùng KTTĐ miền Trung thu hút được là quá ít, chỉ chiếm gần 3% số dự án và 1,7% số vốn FDI đăng ký. Giá trị sản xuất công nghiệp (GTSX CN) của các doanh nghiệp trong các KKT tại vùng KTTĐ miền Trung có sự tăng lên nhanh chóng đóng góp lớn vào GTSX CN chung của các địa phương trong Vùng, cụ thể năm 2017, GTSX CN của các KKT tại Vùng đạt 121.014 tỷ đồng, chiếm 41,1% GTSX CN của Vùng.

- Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng TP.HCM đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, quyết định số 2076/QĐ-TTg ngày 22/12/2017.

Đất xây dựng các khu công nghiệp đến năm 2030 là 69.000ha.

Phát triển theo hướng hình thành vùng công nghiệp – đô thị hiện đại gắn kết giữa phát triển khu đô thị, khu công nghiệp, khu thương mại – dịch vụ đảm bảo cho KCN phát triển bền vững. Phát triển liên kết các KCN thành vùng công nghiệp, hình thành vùng công nghiệp chuyên sâu và công nghiệp địa phương.

Phân bố công nghiệp tiểu vùng đô thị trung tâm, vùng công nghiệp vành đai phía Đông thành phố Biên Hòa – Trảng Bom – Long Thành – Nhơn Trạch; vùng công nghiệp vành đai phía bắc gồm thành phố Bình Dương – Thủ Dầu Một – Bến Cát – Tan Uyên, Dĩ An, Thuận An, vùng công nghiệp vành đai phía Tây hồm Bến Lức – Hiệp Phước. Ưu tiên phát triển ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp phụ trợ.

Phân bố công nghiệp theo các trục hành lang QL 1A Dầu Giây – Long Khánh – Gia Ray, Cẩm Mỹ gồm công nghiệp phụ trợ, chế biến nông lâm sản, công nghiệp nhẹ cơ khí, may mặc, giầy da, công nghệ sinh học. Phân bố dọc trục QL51: công nghiệp chuyên sâu gắn với hành lang Xuyên Á cảng biển trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế Long Thành, phát triển công nghiệp nặng, công nghiệp dầu khí. Gắn phát triển công nghiệp dọc trục QL13: công nghiệp đa ngành, công nghiệp phụ trợ, ưu tiên ngành chế biến gỗ xuất khẩu, chế biến nông sản (cao su, hạt điều, cà phê) công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống, công nghiệp cơ khí, vật liệu xây dựng. Ngoài ra, còn phân bố dọc trục QL22, QL50…

3. Những tồn tại và kiến nghị cho công tác QHXD KCN

Trước bối cảnh  phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 khi các yếu tố đầu vào như lao động giá rẻ, tài nguyên dồi dào không còn là thế mạnh của Việt Nam, cần thiết hướng tới tái cấu trúc mô hình các KCN nhằm thu hút các dự án quy mô lớn, công nghệ hiện đại, hàm lượng tri thức cao. Phát triển các KCN phải đảm bảo hài hòa lợi ích, có tầm nhìn dài hạn, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường là mục tiêu cao nhất, khai thác tốt các lợi thế tiềm năng địa phương và phù hợp với định hướng phát triển KT-XH của các vùng lãnh thổ và cả nước. Rà soát hệ thống các KCN, KCN đô thị, KCN trong khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu nhằm hướng hình thành các KCN chuyên ngành, giảm bớt KCN tổng hợp.

Trong giai đoạn tới, tác động của chiến lược mở rộng thị trường sản xuất của các quốc gia lớn ngoài các thị trường truyền thống như Đông Á, Trung Quốc, Mỹ, EU còn các thị trường mới như Nga, Brazil và Ấn Độ trong khu vực sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới việc hình thành cơ sở sản xuất quy mô lớn tại các địa bàn ven biển phía Bắc (Quảng Ninh, Hà Tĩnh) và phía Nam. Hệ thống các KCN này vừa có ảnh hưởng tích cực tạo nguồn lực phát triển nhưng cũng đi kèm những tác động, hệ lụy về môi trường và xã hội do là những vùng có điều kiện tự nhiên rất phong phú và đa dạng. Do đó, cần xây dựng bộ công cụ quy hoạch xây dựng KCN, KKT và đánh giá tác động môi trường cho các dự án lớn, huy động các viện nghiên cứu, các nhà khoa học và xã hội.

Xu thế biến đổi cấu trúc giao thông kết nối vùng và lãnh thổ quốc gia thông qua hình thành hệ thống đường cao tốc, ga hàng không, cảng biển sẽ tạo ra những xu thế dịch chuyển về phân bố địa bàn hệ thống các KCN “mới” trong giai đoạn tới. Do đó, chiến lược tích hợp hệ thống KCN với hệ thống đô thị mới và các điểm dân cư công nghiệp cần được thể hiện rõ định hướng Quy hoạch tổng thể Quốc gia, Quy hoạch hệ thống đô thị - nông thôn để tạo ra sức mạnh tổng hợp giữa phát triển sản xuất và nguồn nhân lực; gắn kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào kỹ thuật; gắn kết giữa phát triển đô thị và hệ thống điểm dân cư hiện đại và hệ thống KCN. Đẩy mạnh nghiên cứu, đổi mới quy hoạch nhằm xây dựng các mô hình đô thị - công nghiệp, khu dịch vụ - công nghiệp – đô thị, KCN sinh thái (tiết kiệm năng lượng, phát thải thấp). Xây dựng mô hình KCN sinh thái, KCN đô thị dịch vụ đồng bộ kết cấu hạ tầng KCN.

Quy hoạch sử dụng đất trong KCN và KCN - đô thị cần đổi mới tạo ra tính chiến lược và linh hoạt phù hợp nhu cầu biến đổi nhanh chóng của thị trường bất động sản công nghiệp. Cơ cấu sử dụng đất, lô đất nhà máy cần linh hoạt phù hợp nhiều loại hình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KCN, tạo điều kiện cho loại hình Logistics được tích hợp tối ưu trong KCN. Đối với đất chức năng ở, dịch vụ thương mại cần đổi mới nhằm hướng tới mô hình đô thị - công nghiệp đồng bộ tạo sức hấp dẫn cho KCN và tạo điều kiện cho công nhân, chuyên gia được hưởng thụ tiện ích đô thị, công viên, hạ tầng xã hội.

Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về Quy hoạch xây dựng KCN theo hướng phát triển bền vững, hội nhập quốc tế trong thời đại CMCN 4.0, bổ sung hướng dẫn quy hoạch thiết kế bền vững về QHXD KCN trong các đồ án quy hoạch vùng, quy hoạch khu chức năng, quy hoạch đô thị, quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết 1/500 các KCN theo mô hình công nghiệp sinh thái, công nghiệp mới.

Cần đa dạng các nguồn vốn để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, hỗ trợ tối đa việc thu hút các nhà đầu tư đến tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Cần minh bạch hóa thông tin về thị trường bất động sản về quy hoạch, tín dụng, thuế , phí…tạo điều kiện để các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong nền kinh tế thị trường. 

Đánh giá - Nhận xét

  • 0
  • 0
  • 0
  • 0
  • 0
Tin liên quan
Đắk Nông 22° - 24° icon
image advertisement
image
imageimage
 
Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1